Các bạn có thể tự tụng kinh tại nhà cho người đã mất giúp họ siêu thoát. Tụng kinh Địa Tạng, kinh Vô lượng thọ, kinh Vu lan hoặc kinh A Di Đà, những bài kinh này được phật tử tụng niệm giúp hóa độ cầu siêu.
17 Bài kinh cầu siêu cho người mới mất chuẩn nhất – META.vn; 18 Bài kinh cầu siêu cho người mới mất chuẩn nhất – Thời Đại Hải Tặc; 19 Top 7 Việc nên làm nhất giúp người chết mau siêu thoát theo quan; 20 Top 14 chép kinh cầu siêu cho người mới mất – marvelvietnam.com
Tụng kinh cho người mới mất là cách giúp họ sớm siêu thoát, về với miền cực lạc. Ngoài ra, tụng kinh cầu siêu cũng là cách giúp người thân đã mất tiêu trừ nghiệp chướng. Giúp họ không rơi vào ngã quỷ, sớm quy y về nơi cửa Phật. Sau đây, Tháp Long Thọ sẽ trình bày
Savefile - Tin Tức - http://gpphanthiet.com/vi/news/savefile/suy-niem-chua-nhat/cac-bai-suy-niem-chua-nhat-29-thuong-nien-c-10894.html
Văn Khấn Cầu Siêu Cho Người Mới Mất; Văn Khấn Cầu Siêu Cho Cha Mẹ; Video liên quan; Cầu Siêu Tại Nhà Là Gì. Cầu siêu tách nghĩa ra được hiểu là cầu trong cầu nguyện, siêu trong siêu thoát; nghĩa là cầu nguyện để ông bà cha mẹ ở nơi cửu huyền được siêu thoát về cõi
NFNV7c.
Tụng kinh cầu siêu là một phần không thể thiếu trong nghi thức cầu siêu cho người đã mất. Đây là một nghi thức tâm linh quan trọng, giúp vong linh thoát khỏi cảnh lang thang và sớm siêu sinh Tịnh độ. Trong bài viết ngày hôm nay, hãy cùng Tháp Long Thọ tìm hiểu những thông tin liên quan đến nghi thức tụng kinh cầu siêu nhé! Nguồn gốc của nghi thức cầu siêu Nghi thức cầu siêu bắt nguồn từ sự tích của Đức Mục Kiều Liên. Ngài vì lòng hiếu thảo mà đã dùng phép thần thông soi khắp đất trời để tìm linh hồn của mẹ mình. Từ đó, ngài biết được mẹ mình đang chịu khổ đày dưới âm ti địa phủ và trở thành ma thể kiềm được niềm đau xót, ngài đã quỳ dưới chân Đức Phật và cầu xin lời khuyên của Phật để cứu giúp mẹ mình. Đức Phật cho lời khuyên ngài nên về tìm cách niệm kinh, giúp mẹ sớm trả hết những nghiệp kiếp đang gánh chịu mới mong được đầu thai chuyển thế. Ba tháng sau, Đức Mục Kiều Liên đã tịnh tiến tu tập ba giới, giải cứu mẹ khỏi bị đày đọa nơi địa ngục. Sự tích của ngài đã được truyền tai nhau khắp nơi và ghi dấu ấn trong lịch sử Phật giáo. Đây cũng chính là căn nguyên để chúng ta tin rằng việc tụng kinh cầu siêu sẽ giúp cho người đã khuất sớm siêu thoát. Sự tích về Đức Mục Kiều Liên cũng là khởi nguồn cho ngày Lễ Vu Lan báo hiếu vào tháng 7 hàng năm. Vì sao nên đọc kinh cầu siêu cho người đã mất? Theo lời Phật dạy, thế gian có sáu cõi bao gồm cõi người, Atula, cõi trời, địa ngục, ngã quỷ và súc sinh. Chúng sinh được sinh ra và lớn lên trong 6 cõi này đều là do duyên nợ hoặc phước đức, nghiệp quả mà mình đã gây ra quyết định. Việc một người rời khỏi thế gian không phải là dấu chấm hết cho vòng luân hồi, đây chỉ là sự trung gian giữa cõi sống này và cõi tiếp mất đi, phần hồn sẽ rời khỏi phần xác và đi lang thang ở cõi nhân gian, đày đọa nơi địa ngục hoặc đầu thai vào một trong 6 cõi. Chúng sinh thường trải qua 49 ngày thân trung ấm, sau giai đoạn này sẽ chuẩn bị xuống địa phủ để nhận tội và bước vào cõi sống tiếp theo. Một số trường hợp, người mất sau 49 ngày vẫn chưa thế siêu thoát hoặc vì một lý do nào đó mà luôn quanh quẩn, mắc kẹt tại nhân gian. Đối với những linh hồn chết trong uất hận hoặc oán giận sẽ không đủ tĩnh tâm để có thể nhìn nhận lại nghiệp báo mình đã gây ra và bị ép buộc đày đọa nơi địa phủ. Lúc này, việc cầu siêu cho người đã mất sẽ giúp họ nhanh chóng được siêu thoát, siêu sinh khỏi cõi địa ngục hoặc ngã quỷ, súc vong linh được nghe kinh cầu siêu thường xuyên và phát tâm hướng thiện, có lòng hướng Phật sẽ được siêu sinh ở ba cõi trên an lành hơn là cõi người, cõi trời và Atula. Thời điểm đọc kinh cầu siêu tốt nhất Tụng kinh cầu siêu sẽ được diễn ra mỗi ngày trong 49 ngày đầu của người mất và nên được thực hiện đẩy đủ theo đúng trình tự. Nếu bạn không có kinh nghiệm về nghi thức cầu siêu thì có thể tham khảo các vị Chư Tăng, Ni Cô tại chùa để được hướng dẫn cụ khi trải qua 49 ngày nếu có đủ thời gian thì quý Phật tử có thể tiếp tục tụng kinh đến 100 ngày, đến giỗ đầu của người mất để sớm giải trừ nghiệp chướng cho người đã khuất. Ngoài ra, vào rằm tháng 7 Âm lịch hàng năm thì các chùa thường tổ chức lễ cầu siêu cho vong linh người đã mất. Quý Phật tử có thể tham gia vào nghi thức tụng niệm để góp phần siêu sinh Tịnh độ cho các linh hồn lang thang, vất vưởng sớm hóa kiếp luân hồi. Những đối tượng nên được tụng kinh cầu siêu Kinh cầu siêu là bài kinh giúp vong linh sớm được thoát kiếp luân hồi hoặc đầu thai vào một cõi sống an lành hơn. Những đối tượng nên được tụng kinh cầu siêu có thể kể đến như Cửu huyền thất tổ Bài sám cầu siêu cho cửu huyền thất tổ, cha mẹ đã mất là cách để bậc con cháu thể hiện sự biết ơn và trân trọng đến với người thân trong gia đình. Nếu vong linh người thân lúc sinh thời thường xuyên gây ra nghiệp quả nặng như phạm khẩu nghiệp, sát sanh, tâm sanh ác nghiệp,… thì việc tụng kinh cầu siêu thường xuyên sẽ phần nào giúp họ tiêu trừ nghiệp chướng, hạn chế được việc bị đọa đày nơi âm ti. Thai nhi Thai nhi dù bị sẩy hoặc cố tình phá bỏ đều sẽ mang trong mình những oán giận nhất định. Bởi lẽ, để có thể đầu thai kiếp người họ đã phải trải qua quá trình tu tập rất lâu mới có thể hóa kiếp. Việc cố ý phá thai giống như bản thân đã phạm tội sát sanh, khiến cho vong nhi nổi giận hoặc u uất mà không chịu siêu thoát. Nghi lễ cầu siêu cho thai nhi là một phần tất yếu, điều này sẽ giúp xoa dịu những vong linh bé nhỏ đang bị tổn thương thoát khỏi nỗi oán giận với cha mẹ. Từ đó mà chúng có thể trút bỏ hận thù, không còn luyến lưu trần thế mà chịu đi đầu thai vào một gia đình khác. Vong linh Vào tháng 7 Âm lịch hàng năm, Chư Tăng và Ni Cô của các chùa sẽ tiến hành tụng kinh cầu siêu mỗi ngày trong tháng để cầu mong cho những oan hồn vất vưởng khắp mọi nơi có thể xóa bỏ nghiệp chướng và sớm đầu thai. Những vong linh từ khắp nơi nếu chịu lắng nghe lời Phật dạy, có tâm tu tập thì sẽ sớm được siêu sinh. Oan gia trái chủ Vong linh oan gia trái chủ là vong hồn của người hay súc sinh… trong kiếp này và vô số kiếp qua đã từng cùng chúng ta kết nhiều mối thâm thù. Có khi làm súc sinh bị chúng ta bắt giết ăn thịt, có khi làm người bị chúng ta đánh đập, hành hạ, cướp đoạt, lừa đảo, giết hại… Họ thường sẽ đi tìm những kẻ đã hại mình và muốn kéo người đó đi theo để đoạt mạng báo thù. Việc cầu siêu cho họ là cách tốt nhất để xóa tan ân oán và chấm dứt mối nghiệt duyên giữa hai bên. Con vật Sám cầu siêu cho con vật thường được tụng niệm để cầu siêu cho những con vật bị giết hại vì những mục đích khác nhau. Cõi súc sinh là 1 trong 6 cõi mà Phật có nhắc đến, những vong hồn nào có nghiệp báo nặng sẽ bị đày vào cõi này và chịu đủ mọi loại khổ ải. Những con vật may mắn như chó, mèo hay các vật nuôi khác sẽ được ưu ái và đối xử tốt hơn. Đối với những con vật khác như gà, vịt, bò,… thường sẽ được nuôi để lấy thịt và chịu đủ đau đớn về thể xác. Sám cầu siêu cho con vật sẽ như một sự xoa dịu linh hồn đầy oán giận của chúng và giúp chúng phần nào mở rộng tấm lòng, đón nhận những điều tốt đẹp hơn ở kiếp sống tiếp theo. Nghi thức tụng kinh cầu siêu Nghi thức tụng kinh cầu siêu là một phần tất yếu trong nghi lễ cầu siêu người đã khuất. Trước khi bắt đầu tụng kinh thì quý Phật tử cần chuẩn bị những vật phẩm cần thiết có trong nghi lễ cầu siêu như bát nhang, trái cây, hoa cúng,.. Sau đó mới tiến hành tụng kinh cầu siêu để Tịnh độ cho vong linh người đã cầu siêu có thể diễn ra tại chùa hoặc tại gia tùy theo ý muốn của gia chủ. Nếu như buổi lễ được tổ chức tại gia thì chúng ta cần chuẩn bị một bàn thờ Phật sạch sẽ, chỉn chu với đầy đủ những đồ vật sau1 bình hoa tươi cúng Phật1 đĩa hoa quả1 chung nước sạchKhông sử dụng thức ăn mặn và đồ vàng mãTrước khi tiến hành nghi lễ bạn phải gột rửa then thể thật sạch sẽ, thay một bộ y phục kín đáo như áo lam – áo Phật tử thường mặc để đi kinh cầu siêu sẽ bao gồm nhiều phần với những ý nghĩa khác nhau. Việc tụng kinh cầu siêu cần được diễn ra theo đúng trình tự với sự thành tâm khẩn nguyện, hướng về vong linh người đã khuất. Bạn có thể tải trọn bộ Bài kinh cầu siêu cho vong linh người mất để có thể tự tụng niệm tại nhà. Nghi thức cầu siêu còn có sự khác biệt tùy theo tín ngưỡng tôn giáo. Đối với những Phật tử theo Phật giáo thì có thể áp dụng cách tụng niệm như thầy Thích Trí Thoát để cầu siêu. Ngoài ra, quý Phật tử hoàn toàn có thể tụng thêm những bài kinh khác như Kinh Địa Tạng, Kinh A Di Đà để có thể hiểu thấu thêm nhiều lời răn dạy của Long Thọ mong là bài viết trên đã phần nào giúp cho bạn hiểu thêm được thông tin hay và hữu ích. Lễ cầu siêu cho người mất là một nghi thức tâm tinh không thể thiếu trong đám tang của Phật giáo. Việc tụng kinh cầu siêu trong 49 ngày đầu sẽ giúp vong linh nhận ra được lỗi lầm của mình, thành tâm hối lỗi và sớm được siêu thoát.
Có nhiều thành viên trong gia đình khi có đám tang là người thân lớn tuổi hơn mình thì thường rốt bãn khoãn không biết nên tụng kinh gì cho người mới mốt là tốt nhất, lựa chọn quyển kinh nào để tụng mà khiến họ được ra đi thanh than, không có vướng víu hoặc canh cánh khuất mát khi còn sống. Chuỗi vòng may mắn của bạn, xem ngay!. Thực tế, hiện nay có rốt nhiều cuốn kinh dùng trong tang lễ, nhưng kinh để đọc cầu siêu thoát cho người chết đúng nghĩa thì không phai ai cũng biết. Bạn nên lựa chọn những quyển kinh cầu siêu giúp người khuất hiểu ra được trên trần gian đã không còn quyến luyến hoặc sự níu kéo nào nừa. giúp họ nhận ra được việc nên buông tay trần thế để tìm đến sự giài thoát cho như vậy họ mới siêu thoát nhanh chóng. Tùy vào người mốt mà có nhiều quyền kinh khác nhau như kinh Địa Tạng hoặc kinh Vu Lan đều chỉ sự báo hiếu, sự hiếu thào của người con đối với cha mẹ. Nên tụng kinh cầu siêu gì cho người mới mất? Việc tụng kinh cầu siêu cho người mới mất không quan trọng về những quyển kinh Phật mà ở tấm lòng người đọc và các thành viên trong tang lễ mong muốn người mất hãy về nơi an nghỉ đừng bàn về chuyện thế sự ở trần gian. Nên đọc bài kinh với tòng giọng, ngôn ngừ như thế nào để giúp họ có thể dễ dàng buông bỏ trần thế, giúp họ từ bỏ sự quyến luyến ở thế gian mà được chuyển đầu thai sang kiếp khác một cách nhanh chóng. Người đọc kinh nên dành những tâm chân thành nhốt khi đang đọc kinh cho người mốt, có như vậy người mốt mới càm nhận và từ bỏ mọi thế sự, khuất mắt ở thế gian mà đầu thai sang kiếp khác. HỖ TRỢ CHÚNG TÔI Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo phi lợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên góp một lần hoặc hàng tháng. STK 117 002 777 568 Ngân hàng Công thương Việt Nam Nội dung Họ tên + tài thí Xiển dương Đạo Pháp Cùng lan toả Đạo Pháp.
Trước đây, mỗi khi cần cầu siêu cho người mới mất, người thân trong gia đình cần phải lên chùa và nhờ các sư thầy soạn một bài tụng kinh và tiến hành nghi thức. Hiện nay, kinh cầu siêu cho người mới mất đã có bản mẫu sẵn nên các gia đình có thể tự làm mà không cần đến sự hỗ trợ của các tăng ni Phật tử, sư thầy. Cầu siêu là gì? Cầu siêu là những lời thỉnh cầu của người thân của người vừa mất với mong muốn người đã khuất có thể nhanh chóng giác ngộ, siêu thoát, quy về cửa Phật hoặc đầu thai sang một kiếp khác. Một nghi thức cầu siêu Khi làm các nghi lễ cầu siêu, linh hồn của người mất sẽ không còn bấn loạn hay vấn vương nơi trần thế mà sẽ được khai tâm mở nhãn, nhanh chóng giải thoát. Hiện nay, để tụng kinh cầu siêu cho người mới mất, người thân nên chọn kinh A Di Đà, kinh Địa Tạng hoặc kinh Vu Lan. Khi một người vừa mới mất, linh hồn của họ thường có xu hướng vương vấn nơi trần thế do tình thương với người còn sống hoặc có nhiều việc chưa thực hiện được khi còn sống. Do đó, việc tụng kinh cầu siêu sẽ giúp linh hồn họ thanh thản hơn, dễ giải thoát hơn. Nguồn gốc của nghi thức cầu siêu Nghi thức cầu siêu được bắt nguồn từ tấm gương hiếu thảo của Đức Mục Kiền Liên Bồ Tát. Theo ghi chép, do mẹ của Ngài là Thanh Đề phạm phải những tội lỗi “tày đình” từ kiếp này qua kiếp khác nên bị đày xuống 18 tầng Địa Ngục. Phận làm con, vì muốn báo hiếu cha mẹ nên Ngày đã sử dụng thần thông để soi khắp trời đất, tìm nơi cha mẹ vãng sanh. Nhờ tấm lòng của mình, Ngài đã được các chư vị giúp đỡ, tìm thấy mẹ đang chịu cảnh đọa đày bởi các hình phạt nơi âm ty. Cầu siêu được cho là xuất phát từ tích Mục Liên – Thanh Đề Không thể cầm được nước mắt, Ngài đã đến thỉnh Đức Phật giúp đỡ và nhận được lời khuyên nên về niệm kinh, giúp mẹ trả hết những nghiệp kiếp đang gánh chịu thì mới có thể đầu thai chuyển kiếp. Sau ba tháng tu tập ba phần giới, cuối cùng Đức Mục Kiền Liên cũng cứu mẹ thoát khỏi Địa Ngục. Đây cũng chính là căn nguyên để người đời tin rằng, việc cầu siêu có ý nghĩa giúp người mất nhanh chóng tìm thấy lối đi, sớm đầu thai chuyển kiếp. Tụng kinh cầu siêu cho người mới mất hàng ngày không chỉ giúp người vừa qua đời sớm được an nghỉ, linh hồn được đầu thai chuyển kiếp mà còn là nghi lễ giúp người thân trong gia đình tưởng nhớ, dành thời gian tiễn đưa người chết đến chặng đường cuối cùng. Bên cạnh đó, kinh cầu siêu còn giúp tâm của những người còn sống được thanh thản, an yên hơn. Tụng kinh cầu siêu để giúp người mất ra đi thanh thản hơn Những đối tượng nên được tụng kinh cầu siêu bao gồm Cửu Huyền Thất Tổ. Thai Nhi. Vong Kinh. Oan linh trái chủ. Con vật. Nghi thức tụng kinh cầu siêu cho người mới mất Dù hiện nay đã có các bài kinh cầu siêu cho người mới mất trên các phương tiện truyền thông đại chúng nhưng không phải cứ đọc là có tác dụng mà chúng ta cần phải thực hiện đúng nghi thức. Theo đó, nghi lễ cầu siêu được thực hiện như sau Dâng hương Thắp 3 nén nhang thơm, sau đó gia chủ quỳ trên chiếu và vái 3 lần rồi cắm nhang vào bát. Đọc kinh Tiếp theo, người thân trong gia đình đọc các bài kinh theo thứ tự như sau mỗi khi kết thúc một nhịp cần lạy một cái. Tán Phật, Quán tưởng. Bài đảnh lễ. Bài trì tụng. Tán lư hương 3 lần. Sau khi đã đọc các bài kinh này, người thân có thể tụng kinh niệm chú đại bi và phát huyện trì kinh. Nếu không có kiến thức về cách chuẩn bị nghi lễ cầu siêu hay thứ tự các bài kinh, gia chủ nên nhờ các vị thiền sư, ni cô tại chùa hướng dẫn cụ thể. Sau khi đã trải qua 49 ngày, nếu có điều kiện, gia chủ có thể đọc hàng ngày đến ngày thứ 100 hoặc đến giỗ đầu. Nội dung bài kinh cầu siêu cho người mới mất hàng ngày chuẩn nhất Niệm hương lễ bái Sau khi thắp đèn và đốt nhang trầm xong, gia chủ hãy đứng ngay ngắn, chắp tay ngang ngực mật niệm Tịnh pháp – giới chơn – ngôn Án lam xóa ha. 3 lần Tịnh tam – nghiệp chơn – ngôn Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ truật độ hám. 3 lần Dâng hương Thắp 3 cây nhang và quỳ ngay thẳng, cầm nhang đưa lên trán niệm lớn bài cúng hương Nguyện thử diệu hương vân, Biến mãn thập phương giới, Cúng dường nhứt-thế Phật, Tôn pháp chư Bồ tát, Vô biên Thanh văn chúng, Cập nhứt thế Thánh-Hiền, Duyên khởi quang minh đài, Xứng tánh tác Phật-sự, Phổ huân chư chúng-sanh, Giai phát Bồ-ề tâm, Viễn-ly chư vọng-nghiệp, Viên-thành vô-thượng đạo. Xá 3 xá rồi đọc bài kỳ nguyện Kỳ nguyện Tư thời đệ-tử chúng đẳng phúng tụng kinh chú, xưng tán hồng-danh, tập thử công-đức, nguyện thập-phương thường-trú Tam-bảo, Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, tiếp dẫn đạo-sư A-Di-à Phật, từ-bi tiếp độ hương linh….. pháp-danh….. phiền-não đoạn-diệt, nghiệp-chướng tiêu trừ, tốc xả mê đồ, siêu sanh Tịnh-độ, ngưỡng kỳ chư Phật từ-bi phóng quang tiếp độ hương-linh vãng sanh Cực-lạc quốc. Tán Phật Pháp vương vô-thượng tôn Tam-giới vô luân thất Thiên nhơn chi ạo-sư Tứ-sanh chi từ-phụ Ư nhứt niệm quy-y Năng diệt tam-kỳ nghiệp Xưng dương nhược tán-thán Ức kiếp mạc năng tận. ứng dậy cầm hướng lên lư rồi chắp tay đứng thẳng và niệm lớn bài Quán tưởng Quán tưởng Năng lễ, sở lễ tánh không tịch, Cảm ứng đạo-giao nan tư nghì, Ngã thử đạo tràng như ế-châu, Thập phương chư Phật ảnh hiện trung, Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền, ầu diện tiếp túc quy mạng lễ. – Chí tâm đảnh lễ Nam-mô Tận hư-không, biến pháp-giới, quá, hiện, vị-lai thập-phương chư Phật, Tôn-Pháp, Hiền-Thánh Tăng, Thường-trú Tam-Bảo. 1 lạy – Chí tâm đảnh lễ Nam-mô Ta-bà Giáo-chủ Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, ương-lai hạ sanh Di-Lặc Tôn Phật, ại-trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát, ại-hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát, Hộ-Pháp Chư-tôn Bồ-tát, Linh-sơn hội thượng Phật Bồ-tát. 1 lạy – Chí tâm đảnh lễ Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới ại-từ ại-bi A-Di-à Phật, ại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát, ại-Thế-Chí Bồ-tát, ại-nguyện ịa-Tạng-Vương Bồ-tát, Thanh-tịnh ại-hải-chúng Bồ-tát. 1 lạy ứng ngay, vô chuông mõ và đồng tụng Tán lư hương Lư hương sạ nhiệt, Pháp giới mông huân, Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân, Thành ý phương ân, Chư Phật hiện toàn thân. Nam-mô Hương-Vân-Cái Bồ-tát ma-ha-tát. 3 lần Chú đại bi Nam-mô ại-Bi Hội-Thượng Phật Bồ-Tát. 3 lần Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại-bi tâm đà-la-ni. Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, Bồ-đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án, tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tỏa. Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam-mô na ra cẩn trì hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ-đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá-lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ-đề dạ bồ-đề dạ, bồ-đà dạ, bồ-đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha. Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha. Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. 3 lần Nam-mô Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật. 3 lần Khai kinh kệ Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như-Lai chơn thiệt nghĩa. Kinh A Di Đà Nam-mô liên-trì hải-hội phật bồ-tát. 3 lần Phật thuyết a-di-đà kinh Như thị ngã văn Nhất thời Phật tại Xá-vệ quốc, Kỳ thọ Cấp-cô-độc viên, dự đại Tỳ-kheo tăng, thiên nhị bá ngũ thập nhơn câu, giai thị đại A-La-hán, chúng sở tri thức Trưởng-lão Xá-Lợi-Phất, Ma-ha Mục-kiền-liên, Ma-ha Ca-diếp, Ma-ha Ca-chiên-diên, Ma-ha Câu-hy-la, Li-bà-đa, Châu-lợi bàn-đà-già, Nan-đà, A-Nan-đà, La-hầu-la, Kiều-phạm-ba-đề, Tân-đầu-lô-phả-la-đọa, Ca-lưu-đà-di, Ma-ha Kiếp-tân-na, Bạc-Câu-la, A-nâu-lâu-đà, như thị đẳng chư đại đệ tử, tinh chư Bồ-tát ma-ha-tát. Văn-thù Sư-lợi pháp-vương-tử, A-dật-đa Bồ-tát, Càng à-ha-đề Bồ-tát, Thường-tinh-tấn Bồ-tát, dữ như thị đẳng, chư đại Bồ-tát; cập Thích-đề-hoàn nhơn đẳng, vô-lượng chư thiên, đại-chúng câu. Nhĩ thời Phật cáo Trưởng lão Xá-Lợi-Phất “Tùng thị Tây-phương quá thập vạn ức Phật-độ, hữu thế-giới danh viết Cực-lạc kỳ độ hữu Phật hiệu A-Di-à, kim hiện tại thuyết-pháp”. Xá-Lợi-Phất! Bỉ độ hà cố danh vi Cực-lạc? Kỳ quốc chúng-sanh vô hữu chúng khổ, đản thọ chư lạc, cố danh Cực-lạc. Hựu Xá-Lợi-Phất! Cực-lạc quốc độ, thất trùng lan thuẫn, thất trùng la-võng, thất trùng hàng thọ, giai thị tứ bảo, châu tráp vi nhiễu, thị cố bỉ quốc danh vi Cực-lạc. Hựu Xá-Lợi-Phất! Cực-lạc quốc độ, hữu thất bảo trì, bát công-đức thủy, sung mãn kỳ trung, trì để thuần dĩ kim sa bố địa, Tứ biên giai đạo, kim ngân, lưu-ly, pha-lê hiệp thành; thượng hữu, lâu các, diệc dĩ kim, ngân, lưu-ly, pha-lê, xa-cừ, xích-châu, mã-não nhi nghiêm sức chi. Trì chung liên-hoa, đại như xa luân, thanh sắc thanh quang, huỳnh sắc huỳnh quang, xích sắc xích quang, bạch sắc bạch quang, vi diệu hương khiết. Xá-Lợi-Phất! Cực-lạc quốc độ thành tựu như thị công đức trang nghiêm. Hựu Xá-Lợi-Phất! Bỉ Phật quốc-độ thường tác thiên nhạc, huỳnh kim vi địa, trú dạ lục thời, vũ thiên mạn-đà-la hoa, kỳ độ chúng-sanh thường dĩ thanh đán, các dĩ y-kích thạnh chúng diệu hoa cúng dường tha phương thập vạn ức Phật, tức dĩ thực thời hạn đáo bổn quốc, phạn thực kinh hành. Xá-Lợi-Phất! Cực-lạc quốc độ thành tựu như thị công đức trang-nghiêm. Phục thứ Xá-Lợi-Phất! Bỉ-quốc thường hữu chủng chủng kỳ diệu, tạp sắc chi điểu Bạch-hạc, Khổng-tước, Anh-võ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Cộng-mạng chi điểu, thị chư chúng điểu, trú dạ lục thời, xuất hòa nhã âm, kỳ âm diễn xướng ngũ-căn, ngũ-lực, thất-bồ-đề phần, bát-thánh-đạo phần, như thị đẳng pháp, kỳ độ chúng-sanh văn thị âm dĩ, giai tất niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Xá-Lợi-Phất! Nhữ vật vị thử điểu, thiệt thị tội báo sở sanh. Sở dĩ giả hà? Bỉ Phật quốc-độ vô tam ác đạo. Xá-Lợi-Phất! Kỳ Phật quốc-độ thượng vô ác đạo chi danh, hà huống hữu thiệt, thị chư chúng điểu, giai thị A-Di-à Phật dục linh pháp-âm tuyên lưu biến hóa sở tác. Xá-Lợi-Phất! Bỉ Phật quốc-độ vi phong xuy động, chư bảo hàng thọ, cập bảo la võng, xuất vi diệu âm, thí như bá thiên chủng nhạc đồng thời cu tác, văn thị âm giả, tự nhiên giai sanh niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng chi tâm. Xá-Lợi-Phất! Kỳ Phật quốc-độ, thành tựu, như thị công-đức trang-nghiêm. Xá-Lợi-Phất! Ư nhữ ý vân hà? Bỉ Phật hà cố hiệu A-Di-à? Xá-Lợi-Phất! Bỉ Phật quang-minh vô-lượng, chiếu thập phương quốc, vô sở chướng ngại, thị cố hiệu vi A-Di-à. Hựu Xá-Lợi-Phất! Bỉ Phật thọ mạng, cập kỳ nhơn dân, vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, cố danh A-Di-à. Xá-Lợi-Phất! A-Di-à Phật thành Phật dĩ lai, ư kim thập kiếp. Hựu Xá-Lợi-Phất! Bỉ Phật hữu vô-lượng vô-biên Thinh-văn đệ-tử, giai A-la-hán, phi thị toán số chi sở năng tri; chư Bồ-tát chúng diệc phục như thị. Xá-Lợi-Phất! Bỉ Phật quốc độ thành-tựu như thị công-đức trang-nghiêm. Hựu Xá-Lợi-Phất! Cực-lạc quốc-độ chúng-sanh sanh giả, giai thị a-bệ-bạt-trí, kỳ trung đa hữu nhứt sanh bổ xứ, kỳ số thậm đa phi thị toán số, sở năng tri chi, đản khả dĩ vô-lượng vô-biên a-tăng-kỳ thuyết. Xá-Lợi-Phất! Chúng-sanh văn giả, ưng đương phát nguyện, nguyện sanh bỉ quốc. Sở dĩ giả hà? ắc dữ như thị chư thượng thiện-nhơn câu hội nhứt xứ. Xá-Lợi-Phất! Bất khả dĩ thiểu thiện-căn phước-đức nhơn-duyên, đắc sanh bỉ quốc. Xá-Lợi-Phất! Nhược hữu thiện-nam tử, thiện-nư nhơn, văn thuyết A-Di-à Phật, chấp trì danh-hiệu, nhược nhứt nhựt, nhược nhị nhựt, nhược tam nhựt, nhược tứ nhựt, nhược ngũ nhựt, nhược lục nhựt, nhược thất nhựt, nhứt tâm bất loạn. Kỳ nhơn lâm mạng chung thời, A-Di-à Phật dữ chư Thánh-chúng, hiện tại kỳ tiền, thị nhơn chung thời, tâm bất điên-đảo, tức đắc vãng-sanh A-Di-à Phật Cực-lạc quốc-độ. Xá-Lợi-Phất! Ngã kiến thị lợi, cố thuyết thử ngôn, nhược hữu chúng-sanh văn thị thuyết giả, ưng đương phát nguyện, sanh bỉ quốc độ. Xá-Lợi-Phất! Như ngã kim giả, tán thán A-Di-à Phật bất khả tư nghị công-đức chi lợi. ông phương diệc hữu A-súc-bệ Phật, Tu-di-tướng Phật, ại-tu-di Phật, Tu-di-quang Phật, Diệu-âm Phật; như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam-thiên đại-thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn “Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín thị xưng tán bất khả tư-nghị công-đức nhứt thiết chư Phật sở hộ-niệm kinh”. Xá-Lợi-Phất! Nam phương thế-giới hữu Nhựt-Nguyệt-ăng Phật, Danh-Văn-Quang Phật, ại-Diệm-Kiên Phật, Tu-Di-ăng Phật, Vô-Lượng Tinh Tấn Phật; như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam-thiên đại-thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn “Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín thị, xưng tán bất khả tư-nghị công-đức nhứt thiết chư Phật sở hộ niệm kinh”. Xá-Lợi-Phất! Tây-Phương thế-giới hữu Vô-Lượng-Thọ Phật, Vô-Lượng-Tướng Phật, Vô-Lượng-Tràng Phật, ại-Quang-Phật, ại-Minh Phật, Bảo-Tướng Phật, Tịnh-Quang Phật; như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam-thiên đại-thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn “Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín thị, xưng tán bất khả tư-nghị công-đức nhứt thiết chư Phật sở hộ niệm kinh”. Xá-Lợi-Phất! Bắc phương thế-giới, hữu Diệm-Kiên Phật, Tối-Thắng-AÂm Phật, Nan-Thơ Phật, Nhựt-Sanh Phật, Võng Minh Phật; như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam-thiên đại-thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn “Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín thị, xưng tán bất khả tư-nghị công-đức nhứt thiết chư Phật sở hộ-niệm kinh”. Xá-Lợi-Phất! Hạ phương thế-giới, hữu Sư-Tử Phật, Danh-Văn Phật, Danh-Quang Phật, ạt-Ma Phật, Pháp-Tràng Phật, Trì-Pháp Phật; như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam-thiên đại-thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn “Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín thị, xưng tán bất khả tư-nghị công-đức nhứt thiết chư Phật sở hộ niệm kinh”. Xá-Lợi-Phất! Thượng phương thế-giới, hữu Phạm-AÂm Phật, Tú-Vương Phật, Hương-Thượng Phật, Hương-Quang Phật, ại-Diệm-Kiên Phật, Tạp-Sắc-Bảo-Hoa-Nghiêm thân Phật, Ta-La-Thọ-Vương Phật, Bảo-Hoa-ức Phật, Kiến-Nhứt-Thiết-Nghĩa Phật, Như-Tu-Di-Sơn Phật; như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam-thiên đại-thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn “Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín thị, xưng tán bất khả tư-nghị công-đức nhứt thiết chư Phật sở hộ niệm kinh”. Xá-Lợi-Phất! “Ư nhữ ý vân hà? Hà cố danh vi Nhứt thiết chư Phật sở hộ niệm kinh”? Xá-Lợi-Phất! Nhược hữu thiện-nam tử, thiện-nữ nhơn văn thị kinh thọ trì giả, cập văn chư Phật danh giả, thị chư thiện-nam tử, thiện-nữ nhơn, giai vi nhứt-thiết chư Phật chi sở hộ niệm, giai đắc bất thối chuyển ư a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Thị cố Xá-Lợi-Phất! Nhữ đẳng giai đương tín thọ ngã ngữ, cập chư Phật sở thuyết. Xá-Lợi-Phất! Nhược hữu nhơn dĩ phát nguyện, kim phát-nguyện, đương phát nguyện, dục sanh A-Di-à Phật quốc giả, thị chư nhơn đẳng giai đắc bất thối chuyển ư a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, ư bỉ quốc độ nhược dĩ sanh, nhược kim sanh, nhược đương sanh. Thị cố Xá-Lợi-Phất! Chư thiện-nam tử, thiện-nữ nhơn, nhược hữu tín giả, ưng đương phát nguyện sanh bỉ quốc độ. Xá-Lợi-Phất! Như ngã kim giả, xưng tán chư Phật bất khả tư nghị công-đức, bỉ chư Phật đẳng, diệc xưng tán ngã bất khả tư nghị công-đức nhi tác thị ngôn “Thích-Ca Mâu-Ni Phật năng vi thậm nan hy hữu chi sự, năng ư Ta-bà quốc-độ ngũ-trược ác thế; kiếp-trược, kiến-trược, phiền-não trược, chúng-sanh trược, mạng-trược trung đắc a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, vị chư chúng-sanh, thuyết thị nhứt thiết thế-gian nan tín chi pháp. Xá-Lợi-Phất! ương tri ngã ư ngũ-trược ác thế, hành thử nan sự, đắc a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, vị nhứt thiết thế-gian thuyết thử nan tín chi pháp, thị vi thậm nan. Phật thuyết thử kinh dĩ, Xá-Lợi-Phất cập chư Tỳ-kheo, nhứt thiết thế-gian, Thiên, Nhơn, A-tu-la đẳng, văn Phật sở thuyết, hoan-hỷ tín thọ, tác lễ nhi khứ. Phật thuyết A-Di-à kinh. A Di Đà Phật tán Tây-phương Giáo-Chủ Tịnh-độ năng Nhơn, Tứ thập bát nguyện độ chúng-sanh, Phát nguyện thệ hoằng thâm. Thượng-phẩm thượng-sanh, ồng phó Bửu-Liên thành. Chí tâm đảnh lễ. 1 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Vô-Lượng-Quang Như-Lai. 2 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Vô-Biên-Quang Như-Lai. 3 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Vô-Ngại-Quang Như-Lai. 4 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Vô-ối-Quang Như-Lai. 5 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Diệm-Vương-Quang Như-Lai. 6 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Thanh-Tịnh-Quang Như-Lai. 7 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Hoan-Hỉ-Quang Như-Lai. 8 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Trí-Huệ-Quang Như-Lai. 9 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Nan-Tư-Quang Như-Lai. 10 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Bất-oạn-Quang Như-Lai. 11 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Vô-Xưng-Quang Như-Lai. 12 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Siêu-Nhật-Nguyệt-Quang Như-Lai. Ma ha bát nhã ba la mật đa tâm kinh Quán-tự-tại Bồ-tát, hành thâm Bát-nhã Ba-la mật-đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. Xá-Lợi-Tử ! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị. Xá-Lợi-Tử ! Thị chư Pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh diệc, vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão-tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề tát-đỏa y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố, tâm vô quái-ngại; vô quái-ngại cố, vô hữu khủng-bố, viễn ly điên-đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam-thế chư Phật, y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại-thần chú, thị đại minh chú, thị vô-thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư. Cố thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha. 3 lần Vãng sanh quyết định chơn ngôn Nam-mô a di đa bà dạ, a tha dà đa dạ, a địa dạ tha. A di rị đô bà tỳ, A di rị đa tất đam bà tỳ, A di rị đa tì ca lan đế, A di rị đa, tì ca lan đa, Dà di nị dà dà na, Chỉ đa ca lệ ta bà ha. Tán Phật A-Di-à Phật thân kim sắc Tướng hảo quang-minh vô đẳng-luân Bạch hào uyển-chuyển ngũ tu-di Cám mục trừng thanh tứ đại hải. Quang trung hóa Phật vô số ức, Hóa Bồ-tát chúng diệt vô-biên Tứ thập bát nguyện độ chúng-sanh Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn. Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới đại-từ đại-bi A-Di-à Phật. Nam-mô A-Di-à Phật. Niệm nhiều ít tùy ý Nam-mô ại-bi Quán-thế-âm Bồ-tát. 3 lần Nam-mô ại-Thế-Chí Bồ-tát. 3 lần Nam-mô ại-Tạng Vương Bồ-tát. 3 lần Nam-mô Thanh-tịnh ại-Hải chúng Bồ-tát. 3 lần Sám thập phương Thập phương Tam-thế Phật A-Di-à đệ nhứt, Cửu phẩm độ chúng-sanh Oai-đức vô cùng cực, Ngã kim đại quy-y. Sám-hối tam nghiệp tội, Phàm hữu chư phước thiện, Chí tâm dụng hồi-hướng. Nguyện đồng niệm Phật nhơn, Cảm ứng tùy thời hiện, Lâm chung Tây-phương cảnh, Phân-minh tại mục tiền, Kiến văn giai tinh tấn, ồng sanh Cực-lạc quốc, Kiến Phật liễu sanh-tử, Như Phật-độ nhứt-thiết, Vô-biên phiền-não đoạn, Vô-lượng pháp môn tu; Thệ nguyện độ chúng-sanh, Tổng giai thành Phật đạo; Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng, Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng, Tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí. Mười đại nguyện Quỳ đọc ệ-tử chúng đẳng Tùy-thuận tu tập Phổ-Hiền Bồ-tát Thập chủng đại nguyện Nhứt giả lễ kính chư Phật, Nhị giả xưng tán Như-Lai, Tam giả quảng tu cúng-dường, Tứ giả sám-hối nghiệp-chướng, Ngũ giả tùy-hỷ công-đức, Lục giả thỉnh chuyển pháp-luân, Thất giả thỉnh Phật trụ thế, Bát giả thường tùy Phật học, Cửu giả hằng thuận chúng-sanh, Thập giả phổ giai hồi-hướng. Hồi hướng Phúng kinh công-đức thù thắng hạnh, Vô biên thắng phước giai hồi-hướng, Phổ nguyện pháp-giới chư chúng-sanh, Tốc vãng vô-lượng-quang Phật sát. Nguyện tiêu tam-chướng trừ phiền-não, Nguyện đắc trí-huệ chơn minh liễu, Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ. Thế thế thường hành Bồ-tát đạo. Nguyện sanh Tây-phương Tịnh-độ trung, Cửu phẩm Liên-hoa vi phụ mẫu, Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh, Bất thối Bồ-tát vi bạn lữ. Nguyện dĩ thử công-đức, Phổ cập ư nhứt thiết, Ngã đẳng dữ chúng-sanh, Giai cộng thành Phật-đạo. Thượng lai Vị chủ lễ xướng một mình như sau ệ-tử chúng đẳng, cung tựu Phật tiền, phúng tụng ại-thừa kinh chú, cập niệm Phật công đức, chuyên vì kỳ siêu hương linh….. Pháp danh….. tốc xả mê-đồ, siêu sanh Tịnh-độ. Phục nguyện Nhứt thành thượng đạt, vạn tội băng tiêu, nguyện hương linh đắc độ cao-siêu, kỳ gia-quyến hàm triêm lợi-lạc. Phổ nguyện Âm siêu dương thới, pháp giới chúng-sanh, tình dữ vô tình, tề thành Phật đạo. Nam-mô A-Di-à Phật. ồng niệm Tam Quy Y Tự quy-y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại-đạo, phát vô-thượng tâm. 1 lạy Tự quy-y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh-tạng, trí huệ như hải. 1 lạy Tự quy-y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống-lý đại-chúng, nhứt thiết vô ngại. 1 lạy. Trên đây là bài kinh cầu siêu cho người mất cũng như ý nghĩa của việc làm này. Hi vọng qua bài viết này, bạn đã biết cách thực hiện nghi thức tụng kinh cầu siêu, giúp người thân vừa mới mất có thể ra đi thanh thản và nhẹ lòng hơn. Tham khảo [Văn khấn] Bài cúng cơm cho người mới mất chuẩn nhất Cúng thất tuần là gì? Nghi lễ cúng thất tuần cho người mới mất Lễ Động Quan là gì? Những điều cần biết về Lễ Động Quan Làm sao để biết người mất về nhà? Dấu hiệu nhận biết chính xác
bài kinh cầu siêu cho người mới mất